Thoại Ngọc Hầu và Châu Thị Tế với công cuộc đào kênh biên phòng Tây Nam Bộ

29/04/2022 02:27 GMT+7
In bài Gửi bài viết


                                                                                                   Nguyễn Quốc

 

   Trong nửa đầu thế kỷ XIX, xã hội bước đầu đã ổn định, triều Nguyễn đã thực hiện được nhiều công trình phục vụ quốc kế dân sinh. Triều Nguyễn đã cho quân lính khai thác nhiều khu vực ruộng đất bỏ hoang gọi là “trại đồn điền”. Tận dụng tiềm lực của quân đội để phát triển nông nghiệp với chính sách “ngụ binh ư nông”; quan trọng là đã vạch ra những kế hoạch rộng lớn, mà việc đào con kênh Thoại Hà nối liền Long Xuyên - Rạch Giá và con kênh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc - Hà Tiên là những công trình to lớn mà triều Nguyễn đã thực hiện cho vùng cực Nam của đất nước. Không chỉ tạo ra một hệ thống thủy lợi trọng yếu ở miền biên viễn, góp phần cho phát triển nông nghiệp, giao thông, thương mại, phục vụ đời sống nhân dân, mà còn phòng giữ vùng biên giới phía Tây Nam Bộ.

 

Công cuộc đào kênh trị thủy vùng biên giới Tây Nam

    Người dân vùng đất phương Nam không ai là không biết đến công lao của ông bà Thoại Ngọc Hầu và Châu Thị Tế với hai con kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế. Các con kênh này được xem là một thành quả to lớn, không chỉ giúp giao thông đường thủy thông thương, một phương án xả nước phèn ra vịnh Thái Lan, mà nó còn trở thành một hào lũy cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ biên giới phía Tây của vùng đất phương Nam.

   Thoại Ngọc Hầu tên thật Nguyễn Văn Thoại, sinh năm 1761, người gốc làng An Hải, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam (nay là phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng), con ông Nguyễn Văn Lượng và bà Nguyễn Thị Tuyết. Ông lớn lên đúng vào thời buổi loạn lạc, đất nước chia cắt, Trịnh - Nguyễn phân tranh, hai bên đánh nhau ác liệt; mẹ ông quá lo sợ nên đưa ông và hai em cùng gia đình thân thuộc chạy nạn vào Nam sinh sống vào năm 1775, cuối cùng đến định cư ở làng Thới Bình, trên Cù lao Dài (thuộc địa phận huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long ngày nay).

    Trong thời gian sinh sống tại cù lao Dài, ông Nguyễn Văn Thoại đã gặp và cưới bà Châu Thị Tế làm vợ vào năm 1788. Khi chúa Nguyễn rút quân về Gia Định, Nguyễn Văn Thoại đã đầu quân theo giúp chúa Nguyễn.

    Bà Châu Thị Tế còn có tên gọi khác là Châu Thị Vĩnh Tế, sinh năm Bính Tuất 1766, người làng cù lao Dài  thuộc xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Bà là trưởng nữ của ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán, vào cuối thế kỷ 18 đã đến lập nghiệp tại thôn Thới Bình (nay thuộc xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long).

     Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, mở ra thời kỳ trị vì của vương triều Nguyễn. Do có công phò tá vua Gia Long, Nguyễn Văn Thoại được triều đình giao cho nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Trấn thủ Lạng Sơn, Trấn thủ Định Tường, Bảo hộ Chân Lạp.... Năm 1817, ông được cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh (bao gồm các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, và một phần Kiên Giang ngày nay).

     Những năm làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, ông đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc phát triển kinh tế và xã hội như quy tụ dân lập ấp, mở mang đường giao thông trong vùng. Ông cho lập 5 làng tại Cù lao Dài (còn gọi là Trường Châu), thuộc huyện Vĩnh Trị, trấn Vĩnh Thanh (nay là huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long).. Ngoài ra, ông cũng có công lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kênh, đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Công lao của Thoại Ngọc Hầu được ghi nhận ở những công trình lớn mà ông để lại cho đời sau, trong đó những công trình thủy lợi nằm trên vùng đất biên địa Tây Nam thuộc tỉnh An Giang mà cho đến ngày nay vẫn còn  nguyên giá trị.

    Vào thời kỳ này đời sống của cư dân miền Tây Nam Bộ có vẻ manh mún do thiếu một hệ thống giao thông cần thiết như những mạch máu liền nhau trong một cơ thể. Lúc bấy giờ, phần lớn liên lạc giữa các vùng duyên hải như Hà Tiên, Kiên Giang với khu vực đồng bằng sông Cửu Long đều phải thông qua đường biển, nên rất xa và nhiều nguy hiểm. Cuối năm 1817, Nguyễn Văn Thoại tấu trình và được vua Gia Long cho phép đào con kênh chảy từ huyện Đông Xuyên, trấn An Giang, sang Kiên Giang, trở thành một thủy lộ quan trọng nối liền hai khu vực trù phú.

   Công trình đào kênh Thoại Hà rộng như một dòng sông nối liền Long Xuyên - Rạch Giá trở thành một trong những con đường huyết mạch của cư dân vùng cực Nam Tổ quốc, tàu bè đi lại tấp nập, thương mại bắt đầu phồn thịnh. Theo Đại Nam thực lục ghi: “Kênh rộng hơn 10 trượng (hơn 40m), sâu 18 thước (7,2m) dài 12.410 tầm (khoảng 37km). Kênh đào trong một tháng thì công việc hoàn tất, Nguyễn Văn Thoại vẽ bản đồ và gửi sớ tấu về triều. Vua Gia Long xem sớ rất vui lòng, bèn ban dụ lấy tên ông đặt cho kênh là Thoại Hà (kênh do ông Thoại đào), ngọn núi Sập (Lạp Sơn) nằm một bên bờ Thoại Hà được đặt tên Thoại Sơn”

   Năm 1817, vua Gia Long thấy tầm quan trọng của khai thông thủy lộ từ Châu Đốc đi Hà Tiên và cũng là mong ước của nước láng giềng Chân Lạp để việc lưu thông và sinh hoạt của người dân trong vùng được thuận lợi; đã lệnh cho Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kênh này với sự phụ tá của Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Điều bát Nguyễn Văn Tồn.

   Kênh từ Châu Đốc đi Hà Tiên được khởi công đào vào ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (30/1/1820), do vướng nhiều trở ngại, có lúc phải tạm ngưng thi công. Lúc đầu, số lượng quân và dân phu người Việt và người Khmer được huy động khoảng 10.500 người. Về sau công việc khó nhọc, số quân và dân phu được huy động lên đến hơn 55.000 người. Nếu tính trong hơn 4 năm đào kênh các quan phụ trách đã huy động đến hơn 90.000 dân binh. Đến tháng 5 âm lịch năm 1824, con kênh mới được đào xong. Kênh rộng 15 tầm (khoảng 45m), sâu 6 thước (2,4m), dài 140 dặm (khoảng 70km), tiếp nối với con sông cũ ra đến biển Hà Tiên, dài tổng cộng 205 dặm (102km). Nhận thấy ích lợi của con kênh đào đối với đời sống của người dân hai vùng Châu Đốc - Hà Tiên, vua đã khen ngợi Nguyễn Văn Thoại, đồng thời sai quan địa phương dựng bia ở bờ sông để ghi nhớ công lao của ông.

   Nói về bà Châu Thị Tế, chánh thất của ông Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, nổi tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang, đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp lừng lẫy của chồng. Bà còn là người có công giúp chồng đào kênh thủy lợi, mở mang phát triển vùng đất Tây Nam bộ….Đơn cử như việc đào kênh từ Châu Đốc đến Hà Tiên kéo dài trong 5 năm (1820-1824), huy động đến hàng vạn nhân công và phải tạm ngưng thi công 4 lần do việc đào kênh ở giữa chốn đồng không mông quạnh, nhiều sơn lam chướng khí, ăn uống thiếu thốn, dịch bệnh xảy ra, nhân công bị đau ốm nhiều, thuốc men không đủ…. Với lòng quyết tâm cao nên cuối cùng con kênh được đào xong. Đây là một công trình lớn đáng tự hào đương thời, vừa là đường hào giúp bảo vệ vùng biên cương, vừa rất thuận tiện cho thuyền bè đi lại, vừa giúp tưới tiêu cho một vùng ruộng đồng rộng lớn. Cùng với sự xuất hiện của dòng kênh Vĩnh Tế, nên nhiều thôn làng mới mọc lên hai bên bờ kênh như: làng Vĩnh Tế (còn gọi Vĩnh Tế thôn), Vĩnh Ngươn, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông…

   Thành công của Nguyễn Văn Thoại trong đại công trình đào con kênh từ Châu Đốc đến Hà Tiên luôn có sự góp công to lớn của bà Châu Thị Tế. Khi được triều đình giao trách nhiệm đào kênh thủy lợi vào năm 1819, nối lưu thông sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan, trải dài theo biên giới Tây Nam của Tổ quốc, Nguyễn Văn Thoại đã lao tâm khổ tứ rất nhiều. Ở nơi dân cư hoang vu thưa thớt, tổ chức sao cho mọi việc được trôi chảy, dân phu được chu cấp ăn uống đầy đủ để có sức làm việc lâu dài không phải đơn giản. Bà Châu Thị Tế đã giúp chồng gỡ rối nhiều vấn đề, đã tận tụy chăm lo công việc tổ chức hậu cần, chỉ huy vận chuyển lương thực thuốc men phục vụ dân phu. Bà thường xuyên chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho ông, động viên ông mỗi khi ông mệt mỏi ngã lòng. Những lúc chồng bận việc công cán, tuần tra biên ải, bà đã thay chồng lãnh phần đôn đốc, coi ngó việc đào kênh, tiếng nhân đức của bà được nhân dân truyền tụng. Bấy giờ trong dân gian có câu: “Nước Nam trai sắc gái tài/Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm”.

   Trước đó, sau khi đào xong kênh nối liền Long Xuyên - Rạch Giá, vua Gia Long đã lấy tên của ông là Nguyễn Văn Thoại đặt thành kênh Thoại Hà, nay không thể lấy tên ông đặt cho con kênh Châu Đốc - Hà Tiên. Vua Minh Mạng xét đến phu nhân của ông là bà Châu Thị Tế, thuộc dòng họ Châu Vĩnh có tiếng trong vùng. Bản thân bà đã tận tâm, tận lực giúp chồng hoàn thành công tác đào kinh thủy lợi do triều đình giao phó suốt mấy năm ròng, bèn đặt tên cho con kênh Châu Đốc - Hà Tiên là Vĩnh Tế hà, người đời sau gọi là kênh Vĩnh Tế. Ngọn núi Sam nằm gần bờ kênh được đặt tên Vĩnh Tế sơn. Con kênh từ đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và đời sống cư dân vùng Châu Đốc - Hà Tiên. Với giá trị to lớn về kinh tế và vai trò chiến lược quan trọng về mặt quốc phòng, năm 1836 (Minh Mạng thứ 17), cho chạm hình tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, là một đỉnh đồng lớn nhất trong Cửu đỉnh, thờ vua Gia Long (Thế tổ Cao Hoàng đế) đặt trước sân Thế miếu (Đại nội Huế).

    Bà Châu Thị Tế còn đóng góp nhiều công sức trong việc tổ chức khai khẩn và đào kênh thông qua địa phận 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang, và công trình trên được xem là cơ sở kinh tế để người Việt đặt chủ quyền trên vùng đất mới này. Bà được vua Minh Mạng phong là Nhất phẩm Phu nhân.

    Việc dùng tên bà Châu Thị Tế đặt cho những địa danh trên vùng đất mới đã chứng tỏ công lao to lớn của bà đối với vùng đất này. Trong văn bia “Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký” (Bia chép núi Vĩnh Tế do vua đặc biệt ban tên) gọi tắt là bia Vĩnh Tế Sơn do Thoại Ngọc Hầu biên soạn, đã dành cho bà Châu Thị Tế những lời lẽ tốt đẹp như sau “…Năm trước đây, thần phụng mệnh coi sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kênh núi Sập mà đặt tên núi là Thoại Sơn. Đến nay, hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố đến vợ thần là Châu Thị Tế, cho rằng có đức dày trong đường lễ giáo, bên trong biết giúp đỡ chồng, một lòng trung thành bền chặt, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là Vĩnh Tế sơn…”

 

Tầm quan trọng của những con kênh vùng biên địa Tây Nam Bộ

    Sự ra đời của kênh Thoại Hà (1818) và kênh Vĩnh Tế (1819 - 1824) lúc bấy giờ là một giải pháp đột phá thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khai hoang, lập ấp, mở mang lãnh thổ. Đồng thời, sự ra đời của các công trình trị thủy này cũng là cơ sở, nền tảng vững chắc giúp vương triều Nguyễn tiếp tục hoạch định kế sách củng cố quyền lực và tạo vững niềm tin khi cho đào những con kênh mang tầm chiến lược tiếp theo. Khi các con kênh thủy lợi hoàn chỉnh đã kéo theo người dân đến đây tìm đất hoang để khai phá lập làng mới. Các thôn xóm mới dần dần mọc lên đan xen với những làng xóm cũ, tạo ra sự đông đúc và trù phú ven đôi bờ kênh. Từ đó thúc đẩy nhanh quá trình định cư và phát triển vùng đất mới ở Nam Bộ của người Việt.

    Việc tổ chức đào kênh thủy lợi miền biên địa phía Tây sông Hậu là cách làm mới trong phòng bị biên cương của nhà Nguyễn mà từ trước đến nay chưa từng có tiền lệ, đó là thiết lập hệ thống kênh nối liền các trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng của vùng để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội và giữ nước. Nước ngọt từ sông Hậu chảy qua kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế rồi ra Biển Tây. Về mùa mưa nước đổ mạnh, lưu lượng nước trên sông Hậu rất lớn vì vậy kênh còn đóng vai trò điều tiết thủy văn với sông Hậu, giảm lụt ở phía hạ nguồn. Nhưng lớn hơn cả vẫn là việc tháo chua rửa mặn ở vùng tứ giác Long Xuyên. Ở đây, đất dần dần được ngọt hóa, là điều kiện thuận lợi cơ bản cho sản xuất nông nghiệp. Đây được xem là bước đột phá vô cùng độc đáo, sáng tạo trong suốt ba đời vua đầu nhà Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị với ba công trình trị thủy trên vùng biên địa Tây Nam còn lưu danh hậu thế: kênh Thoại Hà (1818), kênh Vĩnh Tế (1819 - 1824), kênh Vĩnh An (1843 - 1844)

     Nếu kênh Thoại Hà là công trình mở đầu, giữ vị trí hết sức thiết yếu. Bên cạnh giá trị kinh tế, khai hoang phục hóa cải tạo một vùng đồng bằng rộng lớn dọc hai bên bờ kênh phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, an dân lập ấp, kênh Thoại Hà còn thể hiện tầm chiến lược quan trọng về mặt quốc phòng. Con kênh được thông suốt từ sông Hậu ra đến biển Tây, từ khu vực Đông Xuyên (Long Xuyên) ra đến Rạch Giá. Do đó, khi có giặc đồn Rạch Giá có thể thoái lui dễ dàng về Trấn Giang theo đường thủy nếu thất thủ, mặc khác có thể đưa quân nhanh chóng từ hệ thống phòng thủ ở Cửu Long Giang sang ứng cứu, khắc phục nhược điểm lớn thời các chúa Nguyễn.

    Ngoài ra, kênh Thoại Hà vừa mang tính chất của một công trình quân sự lại vừa có tác dụng kinh tế quan trọng làm thay đổi bộ mặt của cả khu vực rộng lớn từ Long Xuyên đến Rạch Giá. Con kênh đã mang đến sự lưu thông thuận lợi từ sông Cửu Long ra biển Tây và ngược lại, không chỉ các thương thuyền qua lại dễ dàng mà việc vận hành quân, chuyển lương đường thủy giữa hai khu vực trở nên thuận lợi. Từ đây khu vực từ Rạch Giá đến Cà Mau đã thật sự được chính quyền nhà Nguyễn kiểm soát thông qua các ngõ thủy đạo đã được thông dòng nội thủy từ Gia Định đến biển Tây. Đây là con kênh có giá trị quân sự to lớn trong công cuộc phòng thủ đất nước buổi đầu khai hoang mở đất; không chỉ là cơ sở khẳng định chủ quyền biên giới quốc gia của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ lại, mà còn là cơ sở trực tiếp cho công tác phòng thủ biên giới Tây Nam của vương triều Nguyễn, để lại lợi ích muôn đời cho hậu thế.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt viếng Lăng Thoại Ngọc Hầu, ảnh TL.jpg

Thủ tướng Võ Văn Kiệt viếng lăng Thoại Ngọc Hầu, ảnh TL.


    Đối với con kênh Vĩnh Tế được đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thuộc xã Vĩnh Ngươn (thị xã Châu Đốc, An Giang) thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, đã giúp tưới tiêu cho hàng vạn mẫu ruộng miền Hậu Giang và việc đi lại bằng đường thủy vô cùng thuận lợi. Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn. Đây là công trình quy mô nhất thời bấy giờ, không những thể hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên thực tế đã phát huy được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối với chính trị, an ninh quốc phòng, đối ngoại cũng như việc phát triển vùng biên viễn trên toàn bộ khu vực phía Tây Nam từ Châu Đốc đến Hà Tiên.

    Nhìn trên bản đồ, kênh Vĩnh Tế không những chỉ là một “con đường” lưu thông bằng thuyền để buôn bán đi lại, phát triển thương mại hoặc đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng mênh mông để rửa sạch chất muối, chất phèn cho mùa màng thêm tươi tốt, phát triển sản xuất nông nghiệp; mà còn có vai trò quan trọng là đường ranh giới chiến lược trong bảo vệ an ninh biên giới, quốc phòng trên vùng đất Tây Nam Bộ nói riêng và vùng đất Long Hồ dinh nói chung, đây là tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân trong những vấn đề “kinh bang tế thế”.

    Để có được những công trình thủy lợi có giá trị to lớn tồn tại cho đến ngày nay, rất nhiều người trong quá trình đào kênh đã mãi mãi nằm xuống do không chịu được thời tiết khắc nghiệt và công việc vất vả. Đặc biệt, nhắc đến kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế thì công lao to lớn nhất thuộc về Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Văn Tồn…. Đây là công trình vĩ đại được dựng xây bởi bàn tay con người, chứa đựng những giá trị to lớn mà cho đến tận bây giờ nó là một phần không thể thiếu trong đời sống người dân vùng biên giới Tây Nam Bộ. Nó chính là niềm tự hào lớn lao của người dân Long Hồ dinh nói riêng và vùng đất Nam Bộ nói chung .

    Đã tồn tại hơn 200 năm nay, đúng như mục đích của việc đào kênh, những con  kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế không chỉ giúp phương tiện đường thủy lưu thông tiện lợi mà còn làm rất tốt vai trò gìn giữ biên cương xã tắc. Đồng thời con kênh cũng góp một phần không nhỏ trong việc đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua, rửa phèn cho ruộng đồng ngày một thêm màu mỡ. Làng quê nơi đây mỗi ngày thêm sầm uất và phát triển, phồn thịnh.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1/ Tỉnh ủy –UBND tỉnh Vĩnh Long, Từ điển Địa chí Vĩnh Long Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017

2/ Tỉnh ủy –UBND tỉnh Vĩnh Long, Địa chí Vĩnh Long tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017

3/ Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí (tái bản), Đỗ Mộng Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999

4/ Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Vùng đất Nam Bộ tập IV từ đầu thế kỷ thứ XVII đến giữa thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2017

5/ Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nhà xuất bản Trẻ, 2006

6/ Trần Hoàng Vũ, Thoại Ngọc Hầu qua những tài liệu mới, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2017

7/ Trẩn Nam Tiến, Nam Bộ dưới thời chúa Nguyễn thế kỷ XVII-XVIII, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2018

Văn Bản Mới
Video